Episodios
-
Dưới ánh mặt trời, sự sống trên địa cầu đã được hình thành, tiến hoá, thích nghi và phát triển qua hàng triệu năm cho đến ngày nay. Như vậy, có thể nói một cách chính xác rằng mặt trời là nguồn sống của hành tinh này.
Ánh nắng mặt trời có rất nhiều lợi ích cho sức khoẻ của muôn loài trên địa cầu, và con người cũng không ngoại lệ. Ánh mặt trời là nguồn cung cấp chính vitamin D cho cơ thể. Ngoài ra, ánh mặt trời còn là nguồn dinh dưỡng cung cấp rất nhiều chất làm giảm nguy cơ mắc các bệnh như loãng xương, còi xương, suy giảm hệ miễn dịch, giảm nguy cơ mắc nhiều loại ung thư, rồi bệnh chuyển hoá, tiểu đường, tim mạch, đến giảm nguy cơ mắc bệnh tự miễn, lupus hệ thống, bệnh ruột viêm, thấp khớp, đến bệnh nhiễm trùng hô hấp, lao phổi, nhiễm trùng huyết, rồi giảm nguy cơ sa sút trí tuệ, tự kỷ, trầm cảm, lo âu… và còn nhiều căn bệnh khác nữa.
Như vậy, để được khoẻ mạnh về thể chất và tinh thần, chất lượng sống tốt, đạt đến tối đa ngưỡng tuổi thọ di truyền của riêng mình, thì ngoài không khí trong lành, nguồn nước uống tinh khiết, thức ăn từ thiên nhiên cân đối phù hợp, môi trường tinh thần xã hội an lành, thì ánh nắng mặt trời cũng là một nguồn dinh dưỡng rất quan trọng và quý báu, được thiên nhiên ưu ái trao tặng, hoàn toàn miễn phí cho chúng ta, cũng như cho tất cả muôn loài trên địa cầu này. -
Khi thu nhận quá nhiều năng lượng dư thừa, nhất là năng lượng dư thừa từ thức ăn chất bột đường, thì cơ thể phải chuyển hoá chất đường glucose dư thừa thành mỡ triglyceride tích trữ trong cơ thể làm béo bụng, thừa cân để giảm bớt sự tổn thương lớp nội mạc của mạch máu do đường dư thừa gây ra, vì khi mạch máu bị hư hoại thì toàn bộ các cơ quan trong cơ thể sẽ bị ảnh hưởng theo.
Như vậy, béo bụng, thừa cân, béo phì không những không phải là thủ phạm gây ra các bệnh lý chuyển hoá mãn tính, làm giảm chất lượng sống cũng như tuổi thọ của chúng ta như gan nhiễm mỡ, rối loạn mỡ máu, tiền tiểu đường, tiểu đường loại 2, bệnh tim mạch, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch não, đột quỵ, sa sút trí tuệ, giảm thị lực, suy thận mãn, viêm các cơ quan, ung thư… ; mà béo bụng thừa cân chính là dấu hiệu báo động cho chúng ta biết rằng cơ thể đang bị ép buộc thu nhận quá nhiều năng lượng dư thừa, đặc biệt là năng lượng dư thừa từ chất bột đường; và béo bụng thừa cân cùng với các bệnh lý mãn tính như vừa đề cập, cũng đều là hậu quả của tình trạng cơ thể bị ép buộc thu nhận quá nhiều năng lượng dư thừa từ thức ăn, nhất là thức ăn bột đường trong thời gian dài nhiều năm; ngoài ra béo bụng, thừa cân cũng đã có công giúp trì hoãn lại sự tổn thương mạch máu và các cơ quan do đường dư thừa gây ra. -
¿Faltan episodios?
-
Hội Chứng Ruột Kích Thích (HCRKT) là một tình trạng rối loạn chức năng mãn tính thường gặp tại ống tiêu hoá, chiếm khoảng trên 10% dân số, ảnh hưởng đến chất lượng sống của người bệnh.
Biểu hiện triệu chứng là đau bụng mãn tính có kèm theo thay đổi về thói quen đại tiện với triệu chứng hoặc tiêu lỏng nhiều lần hoặc táo bón, hoặc hỗn hợp xen kẽ có lúc tiêu lỏng khi thì táo bón mà không tìm ra tổn thương thực thể nào liên quan đến ống tiêu hoá.
Nguyên nhân đa phần có lẽ nằm trong các chất được đưa vào qua đường miệng mà không phù hợp với cơ thể riêng của mỗi người; cũng như do các yếu tố tâm lý xã hội tác động qua các giác quan truyền vào hệ thần kinh, làm thay đổi mất cân bằng hệ thần kinh nội tiết, gây ra HCRKT hoặc làm nặng lên các triệu chứng đã có sẵn.
Về điều trị, áp dụng phương pháp loại trừ dần để có thể tìm ra dược nguyên nhân nằm trong các thức ăn nào đó, cũng như các chất không phù hợp có trong các loại thuốc men, thực phẩm chức năng…để loại trừ. Rồi, thể dục thể thao, cũng như thực tập các phương pháp thiền thư dãn, quán niệm hơi thở, chánh niệm, giúp cân bằng lại hệ thần kinh nội tiết, sẽ tác động ổn định tình trạng này.
Còn các loại thuốc men được kê toa trong điều trị HCRKT chủ yếu chỉ để tạm thời giảm nhẹ triệu chứng, làm giảm đau bụng, giảm tiêu chảy hoặc táo bón, chỉ được dùng trong những trường hợp có triệu chứng trung bình hoặc nặng ảnh hưởng đến chất lượng sống, chứ không điều trị khỏi hẳn được HCRKT. -
Đau Dạ Dày hay y học gọi là Rối Loạn Tiêu Hoá (RLTH) là một chứng bệnh phổ biến xảy ra cho khoảng 20% dân số thế giới. Khoảng 1/4 những người bị chứng RLTH là có liên quan đến các tổn thương hay gặp như Loét dạ dày tá tràng có nhiễm hoặc không nhiễm vi trùng HP, rồi đến các bệnh về gan mật tuỵ và một số bệnh khác nữa… Còn lại 3/4 trường hợp thường sẽ không tìm thấy tổn thương nào đặc biệt có thể liên quan đến triệu chứng đau dạ dày, và các trường hợp này được gọi là RLTH không loét hoặc RLTH chức năng, và đa số đều có kết quả nội soi trả lời là Viêm dạ dày có hoặc không có vi trùng H.P.
Vi trùng H.P. chỉ là 1 trong rất nhiều nguyên nhân gây viêm đau dạ dày, nguyên nhân đa số còn lại có lẽ nằm trong các loại thức ăn thức uống, thuốc men …mà không phù hợp với cơ thể riêng mỗi người mà dạ dày là nơi đầu tiên phải tiếp xúc mỗi ngày; rồi đến các yếu tố stress, căng thẳng, lo âu… cũng làm rối loạn hệ thần kinh nội tiết sẽ gây mất cân bằng hoạt động nội môi, ảnh hưởng đến sự chế tiết và nhu động co bóp của ống tiêu hoá gây ra triệu chứng RLTH.
Về điều trị, nếu RLTH mà có nhiễm HP thì điều trị tiệt trừ H.P.; nếu không có nhiễm H.P. hoặc đã điều trị hết H.P. mà vẫn tái phát đau thì nên tìm nguyên nhân gây bệnh từ tất cả các chất mà dạ dày phải tiếp xúc hàng ngày như trong các thức ăn, thức uống, thuốc men…mà ta dùng; rồi đến các yếu tố gây stress, căng thẳng, lo âu, buồn phiền, tức giận… để mà loại trừ tận gốc nguyên nhân gây bệnh. -
Trào ngược dạ dày thực quản là hiện tượng sinh lý bình thường mà các chất trong dạ dày trào ngược lên thực quản nhất là sau bữa ăn. Khi sự trào ngược này xảy ra thường xuyên và gây triệu chứng khó chịu nhự ợ nóng, ợ chua hoặc gây tổn thương thực quản thì gọi là bệnh trào ngược dạ dày thực quản.
Theo một số ước tính, khoảng 10–20% dân số ở các nước phương tây bị chứng bệnh trào ngược dạ dày thực quản; còn ở các nước đang phát triển như châu Á khoảng dưới 5%.
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản xảy ra do cơ vòng thực quản dưới bị giảm trương lực hoặc có thêm sự tổn thương vùng nối thực quản dạ dày và lỗ cơ hoành gây thoát vị hoành trượt làm tăng thêm nguy cơ trào ngược, nhất là khi nằm ngủ.
Triệu chứng bệnh thường là ợ nóng, ợ chua và một số triệu chứng khác nữa liên quan đến đường hô hấp do chất trào ngược gây ra; hoặc có những triệu chứng do biến chứng trào ngược lâu ngày…
Chẩn đoán dựa vào bệnh sử triệu chứng điển hình là có thể chẩn đoán được. Còn nội soi thường dùng để chẩn đoán xem có các tổn thương viêm trợt thực quản, thoát vị hoành, hoặc các biến chứng như thực quản Barrett, hẹp thực quản hoặc ung thư thực quản do trào ngược lâu ngày gây ra.
Về điều trị, thay đổi lối sống, chế độ ăn uống để tìm ra và loại trừ yếu tố nguyên nhân gây dãn cơ vòng thực quản có trong một số thức ăn, một số loại thuốc men, cùng với làm giảm áp lực ổ bụng bằng cách giảm mỡ bụng là biện pháp hiệu quả để hồi phục bệnh trào ngược dạ dày thực quản cho đa số các trường hợp.
Còn thuốc giảm tiết acid dạ dày loại PPI có tác dụng làm giảm triệu chứng khi xảy ra trào ngược, và hỗ trợ mau lành vết viêm trợt thực quản; nhưng các thuốc này cũng có những tác dụng bất lợi khi dùng lâu dài; và khi làm giảm triệu chứng bằng các thuốc ức chế tiết acid cũng sẽ gây khó khăn trong việc truy tìm nguyên nhân gây bệnh trào ngược dạ dày thực quản. -
Ngáy là một dấu hiệu cũng hay gặp khi ngủ. Nhưng Ngáy và Nghẹt thở khi ngủ lại là một là tình trạng bệnh lý ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ toàn diện.
Nghẹt Thở Khi Ngủ là tình trạng cổ họng bị nghẹt khi nằm ngủ, đặc biệt là khi nằm ngửa. Đa phần nguyên nhân là do dư cân béo phì làm mỡ tích tụ ở đáy lưỡi và cuống họng, hoặc một ít có thể do các nguyên nhân khác về bệnh lý mũi họng, như phì đại amygdale, VA …. ; nên khi nằm ngủ, lúc các cơ thành họng thư dãn sẽ làm hẹp cuống họng, rồi lưỡi to và nặng sẽ bị tuột xuống bít tắc cuống họng gây cản trở hô hấp dẫn đến thiếu oxy, ứ đọng khí các bô nic, gây chuyển hoá yếm khí làm tích tụ nhiều chất làm tổn thương tế bào. Giấc ngủ bị gián đoạn liên tục sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ toàn diện, suy yếu hệ miễn dịch, giảm chất lượng sống, tăng nguy cơ các bệnh lý tim mạch đột tử…
Triệu chứng thường là ngáy và nghẹt thở có chu kỳ khi ngủ, uể oải khi thức dậy, ban ngày hay bị ngáp, buồn ngủ, ngủ gật, tăng huyết áp, năng suất học tập làm việc bị ảnh hưởng, chất lượng sống giảm; theo thời gian sức khoẻ sẽ suy giảm dần.
Bằng cách quan sát người thân khi đang ngủ, những người mà hay bị ngáy trong lúc ngủ là có thể chẩn đoán được họ có bị chứng Nghẹt Thở Khi Ngủ hay không.
Về điều trị, đeo máy thở áp lực dương liên tục như CPAP trong khi ngủ chỉ là giải pháp tạm thời. Giải quyết tận gốc là điều trị các bệnh lý vùng mũi họng, điều trị dư cân béo phì bằng cách thay đổi lối sống, chế độ ăn uống giảm mỡ thừa, tập luyện thể thao để tăng cường công năng hô hấp, bỏ hút thuốc, giảm bớt tối đa bia rượu, hạn chế ngủ ở tư thế nằm ngửa… có lẽ là giải pháp hiệu quả bền vững nhất cho đại đa số các trường hợp bị chứng Nghẹt Thở Khi Ngủ. -
Muốn giảm béo bụng, giảm mỡ dư thừa để hồi phục tiền tiểu đường và tiểu đường loại 2, để giải quyết tận gốc mọi vấn đề về sức khoẻ liên quan đến dư cân do thu nạp quá nhiều chất bột đường vượt quá nhu cầu cần thiết của cơ thể làm lão hoá sớm, như Tiền tiểu đường, Tiểu đường loại 2, tăng mỡ triglyceride máu, gan nhiễm mỡ, xơ vữa mạch máu, cao huyết áp, bệnh tim mạch, sa sút trí tuệ, đột quỵ, suy thận mãn, các tình trạng viêm trong cơ thể… thì nên:
Ăn chất đạm vừa đủ nhu cầu để giữ cho đủ chất liệu tạo nên cấu trúc tế bào và các cơ quan cùng các chất sinh hóa quan trọng.
Hạn chế tối đa ăn chất bột đường, bia rượu; nhưng gia tăng thành phần thức ăn béo lành mạnh từ động vật và thực vật để giảm cảm giác đói bụng thèm ăn, để có đủ chất béo tổng hợp nên các cấu trúc tế bào cùng các chất sinh hoá quan trọng khác cho cơ thể hoạt động, đồng thời làm đường huyết ổn định, không tăng cao, không kích thích tăng tiết nhiều insulin, dẫn đến giảm sự đề kháng insulin;
Nên ăn ít bữa trong ngày, sẽ làm giảm đề kháng insulin, tăng quá trình tự thanh lọc cơ thể, sẽ làm cơ thể tăng sử dụng mỡ thừa để tạo năng lượng hoạt động, dẫn đến giảm béo bụng, giảm mỡ dư thừa, giảm cân, sẽ có thể giải quyết tận gốc tình trạng đề kháng insulin, và các hậu quả do nó gây ra, để hy vọng chất lượng cuộc sống sẽ tốt hơn, giảm bị lệ thuộc vào thuốc men y tế, cũng như có thể đạt đến tối đa ngưỡng tuổi thọ di truyền của riêng mình. -
Tiểu Đường là khi lượng glucose trong máu lúc đói từ 126 mg/dl, hoặc A1c từ 6,5% hay cao hơn, hoặc đường trong máu đo bất kỳ lúc nào trong ngày mà trên 200mg/dl trở lên.
Còn Tiền Tiểu Đường là glucose trong máu khi đói trong khoảng 100-125 mg/dl, hoặc A1c từ 5,7% đến 6,4%.
Nói chung, một số không ít những người bị Tiểu Đường không biết rằng mình đang mắc bệnh, và trong số những người Tiền Tiểu Đường thì đại đa số cũng không biết mình đang lâm vào tình trạng này.
Cơ thể chúng ta có một hệ thống rất nhiều các nội tiết tố, trong đó có ít nhất 2 chất chính liên quan đến sự cân bằng lượng đường trong máu, đó là Insulin làm giảm đường glucose trong máu xuống, còn Glucagon ngược lại, lại làm tăng đường trong máu lên, ngoài ra còn nhiều chất khác nữa…
Tiểu Đường có 2 loại, đó là:
Tiểu Đường loại 1 thường gặp ở trẻ em do tổn thương tuyến tuỵ, nên thiếu trầm trọng hoặc không có insulin trong cơ thể. Bệnh thường diễn tiến rất nhanh trong vài tuần lễ, triệu chứng nặng, gây suy sụp cơ thể trầm trọng. Nếu được chẩn đoán và điều trị đúng lúc bằng insulin tổng hợp, thường sẽ hồi phục tốt hoàn toàn và phải dùng thuốc insulin duy trì suốt cuộc đời. Tiểu Đường loại 1 chiếm khoảng 5-10%, còn lại 90-95% là Tiểu Đường loại 2.
Tiểu Đường loại 2 là loại tiểu đường thường xảy ra ở người lớn có tình trạng dư mỡ bụng, tăng cân, béo phì. Nguyên nhân là do đề kháng insulin, tức là nồng độ insulin trong cơ thể thường là vẫn bình thường hoặc tăng cao, nhưng tế bào đề kháng lại, hạn chế không cho insulin đưa glucose đi vào bên trong tế bào nữa. Bệnh thường diễn tiến chậm, âm thầm trải qua giai đoạn Tiền Tiểu Đường kéo dài trong nhiều năm, hầu như không có triệu chứng gì đặc biệt trước khi chuyển sang Tiểu Đường loại 2. Nếu được chẩn đoán sớm và điều chỉnh lối sống, chế độ ăn uống phù hợp với nhu cầu cơ thể riêng của từng người thì đa số có thể sẽ khỏi hoàn toàn. -
Có thể nói, bản thân cholesterol không xấu và cũng không tốt. Cũng như rất nhiều chất khác trong cơ thể, Cholesterol là một chất rất cơ bản và quan trọng cho sự sinh tồn của cơ thể. Cholesterol là chắt cấu tạo chính của màng tế bào. Bộ não chỉ nặng khoảng 2% trọng lượng cơ thể, thế nhưng lại chiếm tới 23% lượng Cholesterol của toàn bộ cơ thể.. Ngoài ra, Cholesterol còn liên quan đến sự tổng hợp rất nhiều chất quan trọng khác trong cơ thể, như các nội tiết tố sinh dục, nội tiết tố vỏ tuyến thượng thận, acid mật, Vitamin Q10… Nồng độ Cholesterol trong máu tăng hay giảm chỉ phản ánh tình trạng cơ thể đang hoạt động như thế nào, chứ cholesterol có lẽ không phải là thủ phạm chính gây ra mọi vấn đề về tim mạch. Cũng có thể là vì mạch máu bị tổn thương do các gốc tự do, hoặc các yếu tố nào khác nữa, nên cơ thể mới phải tăng sản xuất LDL Cholesterol loại hạt nhỏ (small particle) để có đủ vật liệu sửa chữa các chỗ tổn thương này, vô hình trung làm mạch máu bị xơ vữa và hẹp lại; chứ có thể không phải vì Cholesterol tăng, nên dẫn đến làm mạch máu bị hư. Hai điều này hoàn toàn không giống nhau.
Còn về thuốc giảm Cholesterol máu nhóm Statins, được dùng để ức chế cạnh tranh men HMG CoA Reductase, làm giảm tổng hợp Cholesterol trong cơ thể, có hiệu quả giảm nguy cơ tuyệt đối về tai biến tim mạch nhưng khá khiêm tốn; cụ thể, nguy cơ tuyệt đối giảm tử vong chung do các nguyên nhân là 0,8%, còn giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim tuyệt đối là 1,3%, và giảm nguy cơ tai biến mạch não là 0,4%. Đó là chưa kể đến các tác dụng bất lợi do thuốc gây ra vì làm giảm luôn sự tổng hợp nhiều chất quan trọng khác liên quan đến Cholesterol. -
Gan nhiễm mỡ là tình trạng tích tụ mỡ, chủ yếu là mỡ triglyceride quá mức trong tế bào gan; một số trường hợp nhiễm mỡ trong gan có thể làm tổn thương chức năng gan, dẫn đến viêm gan nhiễm mỡ, xơ gan và có thể ung thư gan.
Nguyên nhân thường là do cơ thể phải nhận nhiều bia rượu, chất ngọt, tinh bột vượt quá nhu cầu và khả năng chuyển hoá của cơ thể, cụ thể là gan; cũng như bị nhiễm các chất độc làm tổn thương chức năng khử độc của gan gây ra gan nhiễm mỡ.
Người bị gan nhiễm mỡ thường đa số sẽ không cảm thấy gì cho đến khi tình cờ được chẩn đoán bằng siêu âm hoặc CT scan bụng, và một số trường hợp sẽ bị Viêm gan nhiễm mỡ.
Gan nhiễm mỡ thường đi kèm các triệu chứng khác do đề kháng insulin và quá trình tăng viêm như như béo bụng, tăng mỡ máu, tiền tiểu đường, tiểu đường type 2, xơ vữa mạch máu, cao huyết áp, thiếu máu cơ tim, giảm thị lực, tổn thương thận…
Về phòng ngừa và điều trị tận gốc, thì phương pháp hiệu quả nhất là thay đổi lối sống sinh hoạt, chủ yếu là chế độ ăn uống sao cho phù hợp với tình trạng sức khoẻ cơ thể của mỗi người để loại bỏ nguyên nhân gây ra gan nhiễm mỡ và các bệnh lý do rối loạn chuyển hoá gây ra. Như vậy, hy vọng chúng ta sẽ đạt được chất lượng sống tốt nhất và đạt tối đa ngưỡng tuổi thọ của riêng mình. -
Có thể nói, Bơi lội là một môn thể thao tự nhiên, đơn giản, mang lại cho ta thêm một kỹ năng quan trọng để sinh tồn dưới nước, có thể ví bơi lội như là đi thiền hành dưới nước vậy. Ngoài việc mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần như các môn thể thao khác, bơi lội còn có những lợi ích riêng biệt khác về sức khoẻ do tư thế nằm ngang trong nước với lực nâng của nước mà một số môn thể thao trên bờ không có được. Như cơ thể sẽ được giải nhiệt tốt hơn trong nước mát mẻ suốt thời gian tập luyện, và với tư thế nằm ngang của cơ thể trong nước sẽ mang lại nhiều lợi ích đặc biệt cho sức khoẻ về hệ xương khớp, tĩnh mạch 2 chân, tĩnh mạch trĩ, hệ tim mạch- hô hấp, cũng như với lực cản cao của nước so với không khí sẽ thuận lợi để rèn luyện cơ bắp một cách đơn giản, an toàn và hiệu quả.
-
Càng ăn ít bữa và thời gian nhịn ăn trong ngày càng kéo dài, cũng như đừng để dư thừa chất bột đường quá nhu cầu của cơ thể sẽ làm giảm lượng insulin trong cơ thể, tăng nhạy cảm tế bào với insulin, giảm tỷ lệ mỡ thừa, giảm cân nặng, tăng quá trình tự thanh lọc cơ thể để có thể sống khoẻ, ngăn ngừa các bệnh do rối loạn chuyển hoá như béo bụng, gan nhiễm mỡ, tăng mỡ máu, cao huyết áp, tiền tiểu đường, tiểu đường, thiếu máu cơ tim, tai biến mạch não, suy thận, viêm thấp khớp, sa sút trí tuệ, ung thư…. và có thể đạt đến ngưỡng tối đa tuổi thọ của mình.