Episoder
-
Nguyễn Tất Thành gặp tại Tư Lê người mà anh đã cứu trong cuộc biểu tình, đấu tranh đòi quyền sống ở Huế. Bấy giờ bản tính lương thiện của anh thấy ai gặp nạn thì ra tay cứu giúp. Nào ngờ sau này chính anh Tư lại là người anh em cùng anh trải qua những năm tháng tuổi 20. Nhờ gặp được Tư Lê, Nguyễn Tất Thành lại một lần nữa ra đi, vào trong Nam đi tìm con đường giải cứu đất nước với cái tên anh Ba.
-
Tại Bình Định, Thành gặp lại người cha đức độ của mình. Cuộc gặp gỡ lần này một lần nữa khẳng định kỳ vọng mà cha anh đã để lại. Dấu chân của Nguyễn Tất Thành in xuống cực Nam Trung Bộ, nghe theo lời cha anh đến dạy ở trường Dục Thanh. Ở đây, anh hết lòng chỉ dạy cho những người học trò nhỏ, lại không quản ngại giúp đỡ những người em gặp khó khăn. Tuy chỉ ở lại một thời gian nhưng ấn tượng và bài học mà anh để lại trong lòng học sinh là những điều quý giá.
-
Mangler du episoder?
-
Tại trường Quốc học Huế, Tất Thành gặp lại những người bạn cũ đã không quản ngại khó khăn giúp đỡ mình năm xưa. Cùng với bạn của mình, trong một lần nhân dân ta nổ ra biểu tình, Thành đi trong đội ngũ đấu tranh đòi quyền sống. Sau cuộc nổi dậy đó, Tất Thành bị cảnh sát săn đuổi. Anh đã có thể trở lại trường học nhưng để lại cái danh người học trò xuất sắc, anh đã ra đi theo tiếng gọi của con tim, ra đi để viết nên những trang sử mới.
-
Chặng đường học Tiểu học Đông Ba đã kết thúc, tâm trí Thành lại bộn bề với bao hy vọng chờ đợi được gọi vào 'Thiên đường trường học' niên khóa 1906 - 1907. Cùng lúc đó, anh xốn sang với cuộc vận động chống Pháp do các sĩ phu yêu nước đang nhen lên. Cuộc gặp gỡ giữa thầy trò Nguyễn Tất Thành và Lê Văn Miến trong một lần mùa thu năm 1906 được nhà văn tái hiện vô cùng xúc động.
-
Bắt đầu từ những ngày sửa soạn theo cha lên đường vào kinh đô Huế lần hai cùng với cha và anh, Côn bận rộn chuẩn bị mọi thứ để tạm biệt mọi người. Sự xa quê lần này của ba cha con diễn ra trong những lời thân thương của mọi người nơi quê nhà.
-
Ở phần này chúng ta sẽ cùng đắm chìm vào những cảm xúc sâu lắng mà nhà văn đã gợi lên trong những ngày tháng cuối ở làng Sen của ba cha con cậu bé Côn trước khi cha cậu vào kinh thành Huế nhậm chức. Dù đã đỗ quan Phó bảng, nhưng ông Sắc khước từ cả việc triều đình gọi bởi ông còn trách nhiệm làm tròn chữ hiếu với cụ đồ An thay người vợ đã mất của mình.
-
Đắm chìm vào những trang văn của tác giả không khỏi xúc động trước hình ảnh cậu bé Côn 11 tuổi chứng kiến cảnh mẹ mất ở kinh thành Huế trong những ngày giáp Tết. Một mình Côn bế đứa em nhỏ côi cút, bệnh tật, yếu ớt mới được vài tháng tuổi đi xin từng giọt sữa để duy trì sự sống cho em. Nhưng chỉ sau một vài ngày, đứa em bé nhỏ kia cũng rời bỏ Côn mà đi. Đau buồn, xót xa trước sự mất mát lớn lao trong gia đình, cụ đồ Nguyễn Sinh Sắc quyết định đưa hai con trai trở về xứ Nghệ.
-
Năm 1898, cậu bé Nguyễn Sinh Cung bắt đầu được học chữ Hán thông qua những lớp dạy học của cha ở Huế khám phá bao điều hay của chữ nghĩa. Song cũng chính trong khoảng thời gian này, gia đình có thêm một thành viên mới nên cậu bé Côn phải phụ mẹ chăm em. Những khó khăn vất vả tại kinh thành Huế đã mang đến nhiều trải nghiệm cùng sự chiêm nghiệm quý giá cho cậu bé Nguyễn Sinh Cung như thế nào?
-
Chuyến di dời theo cha mẹ vào kinh thành Huế lúc bấy giờ cũng chính là bước ngoặt đầu tiên trong cuộc đời của Bác. Tại đây, cậu bé Côn bắt đầu được ảnh hưởng rõ hơn sự học từ cha mẹ. Nghe điều gì, thấy điều gì đều là bài học vỡ lòng. Chữ là mắt, người không có chữ coi như người mù ở thế gian. Trí thông minh, sự nhạy bén và ham học hỏi hơn người của cậu bé Côn được nhà văn Sơn Tùng khắc họa rõ nét qua từng câu hỏi, lời nói, thái độ diễn ra trong đời sống bình thường.
-
Trong tác phẩm ‘Búp sen xanh’ của nhà văn Sơn Tùng, tác giả sử dụng theo tiếng địa phương nên cậu bé Nguyễn Sinh Cung hồi nhỏ vẫn được mọi người quen gọi là cậu bé Côn. Như một lẽ đương nhiên, cậu bé Nguyễn Sinh Côn càng lớn càng thông minh, sáng dạ. Cậu có những suy nghĩ, lời nói không giống như những đứa trẻ khác. Không ít người bạn của cụ nho Sắc đã phải trầm trồ khen ngợi.
-
Trong phần ba của cuốn tiểu thuyết sẽ kể lại về xuất thân dòng dõi và những năm tháng tuổi thơ mồ côi cha mẹ được gia đình thầy dạy Hoàng Xuân Đường nuôi dưỡng của cậu bé Nguyễn Sinh Sắc – cha của Bác Hồ.
-
Trong phần hai của cuốn tiểu thuyết kể về tang lễ của thầy đồ Hoàng Xuân Đường, là ông ngoại của Bác Hồ cũng là thầy dạy, người nuôi dưỡng ông Nguyễn Sinh Sắc – người cha yêu quý của Bác. Những trang tiểu thuyết cũng cho biết thêm về gia thế của bà Hoàng Thị Loan và thầy đồ Nguyễn Sinh Sắc – những bậc thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
-
Tiểu thuyết ‘Búp sen xanh’ của nhà văn Sơn Tùng kể về tuổi thơ và thời niên thiếu của Bác Hồ. Trong phần 1 của cuốn tiểu thuyết, mời quý vị trở về làng quê xứ Nghệ những năm cuối thế kỷ 19, thời điểm cậu bé Nguyễn Sinh Cung chào đời.
-
Truyện ngắn ‘Con tôi đi lính’ là một tác phẩm ấn tượng của nhà văn Chu Lai. Câu chuyện kể về tâm trạng của người làm cha mẹ khi có cậu con trai xa nhà và bước chân vào môi trường quân đội. Những diễn biến tâm trạng của cha mẹ ở nhà ra sao và cậu con trai trong quá trình nhập ngũ sẽ như thế nào?
-
Bước vào chiến dịch Xuân Hè năm 1953, toàn Đảng toàn quân tập trung hướng tiến quân lên vùng Tây Bắc, đồng thời triển khai nhiều trận truy kích làm tiêu hao lực lượng, lung lay tinh thần của địch. Đó cũng là những tín hiệu đáng mừng để chuẩn bị bước vào một trận đánh lớn, trận đánh đi vào lịch sử của dân tộc như một trong những dấu son chói lọi. Diễn biến của trận đánh đó sẽ được gửi tới quý thính giả trong phần cuối của cuốn hồi ức 'Đại tướng Võ Nguyên Giáp đường tới Điện Biên Phủ'.
-
Chiến dịch Thu đông năm 1952 đã thành công vượt mức dự kiến. Đây cũng là động lực để toàn dân và quân ta tiếp tục dồn sức người, sức của tiến đánh vào những điểm yếu nhằm tiêu hao sinh lự của địch. Đồng thời tập trung khôi phục kinh tế sau thiên tai để đảm bảo đời sống của nhân dân, cung cấp lương thực cho các chiến sỹ nơi chiến trường. Diễn biến của những trận đánh tới sẽ tiếp diễn như thế nào?
-
Ta tiếp tục sử dụng chiến thuật 'công đồn đả viện' và thường xuyên uy hiếp các đường tiếp tế thủy, bộ để cầm chân số lớn lính Pháp. Trên hướng phối hợp, ta tiến sâu vào vùng địch tạm chiến ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, liên tục tấn công địch góp phần vào thắng lợi của mặt trận chính. Quân Pháp phải rải quân ra ở nhiều nơi, cạn hết quân dự trữ. Bộ chỉ huy Pháp lúng túng đối phó trong khi chiến phí ngày càng quá sức chịu đựng khiến nội tình nước Pháp ngày càng rối bời.
-
Sau thành công của đợt một chiến dịch Hòa Bình, ta tiếp tục đập vỡ phòng tuyến sông Đà, tiêu diệt điểm cao 400, 600, Đá Chông, Chẹ, chặn đánh các cánh quân viện trên các trục được 87, Ba Vì, Mỹ Khê. Quân Pháp nhận thấy không đủ lực lượng bảo vệ phòng tuyến sông Đà nên rút lui toàn bộ, chỉ để lại cụm cứ điểm Đan Thê-La Phù gần Trung Hà, Sơn Tây. Địch dự định sẽ tăng cường phòng ngự tuyến đường số 6 và thị xã Hòa Bình. Qua 20 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt được bộ phận lớn của quân địch, đường tiếp tế trên sông Đà của địch bị tê liệt. Đường số 6 bị chia cắt, quân Pháp ở Hòa Bình đã hoàn toàn chuyển sang thế phòng ngự bị động.
-
Sau những phân tích, đánh giá về tình hình và âm mưu của địch, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Tổng quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh, quân và dân ta đã mở màn chiến dịch Hòa Bình vào ngày 10/12/1951. Quân ta mở một cuộc tiến công lớn đánh địch trên cả hai mặt trận, tập trung chủ lực ở hướng chính là Hòa Bình, đặc biệt là cứ điểm Tu Vũ, núi Chẹ. Và mạnh bạo đưa một bộ phận chủ lực vào hoạt động trong vùng địch hậu đồng bằng Bắc Bộ.
-
Sau khi thực hiện chiến dịch Lý Thường Kiệt và một tháng chiến tranh du kích ta đã diệt và bắt được khoảng 500 quân địch. Không rõ số bị thương, nhưng lực lượng của ta bị tiêu hao rất nhiều. Đây cũng là một trong những thất bại không mong muốn mà nguyên nhân chính là do việc di chuyển bộ đội quá chậm nên địch phát hiện và đối phó. Đứng trước những tổn thất đó và trước diễn biến tình hình tương đối phức tạp, đặc biệt là việc Pháp cho tấn công chiếm Hòa Bình, Trung ương có những quyết định chỉ đạo và hương tấn công như thế nào?
- Se mer